Nhà thơ Việt Phương: Cửa đã mở !
Phong Điệp
Câu chuyện thời “Cửa mở”
Như không thể khác – câu chuyện với ông trong những ngày đầu năm 2008 lại quay trở về những kỉ niệm của 40 năm về trước, của tập thơ Cửa mở đã đi vào tâm thức của rất nhiều thế hệ , với những câu thơ thật khó quên: “Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở. Cuộc đời thân như hơi thở ta ơi. Ta vui lắm những niềm vui cởi mở. Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Hay những câu táo bạo như : “Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là đánh đẹp”.
Sau nhiều năm, ông mới tiếp tục ra tập thơ thứ hai - Cửa đã mở, tập hợp các bài thơ ông làm trong suốt 40 năm qua. Cuốn sách như một món quà nhân kỉ niệm lần sinh nhật thứ 80 của nhà thơ Việt Phương. Tuy nhiên, buổi ra mắt sách – vô tình trở thành cái cớ để bạn yêu thơ ông cùng nhớ về một thời Cửa mở. Và những chuyện của ngày ấy – khi xưa người ta không tiện hỏi, ông không tiện giãi bày, thì giờ đây mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Trước khi đến cuộc hẹn, để được gặp mặt ông, tôi đọc lại biên bản cuộc họp của 37 năm về trước- về cuốn Cửa mở
Cách đây chừng 2 năm, trên phụ trương báo Thơ - Hội nhà văn Việt Nam, lần đầu tiên người ta được tận mắt đọc biên bản cuộc họp về cuốn Cửa mở. Nguyên văn lời toà soạn: “Cuối năm 1970, nhiều cửa hàng sách sau khi bán tập thơ Cửa mở của Việt Phương (Nxb Văn học - 1970), liền phải đi thu hồi sách về, nhưng rốt cuộc chỉ thu hồi được từ các thư viện, chứ không thể thu hồi được sách đã bán cho khách “vãng lai”. Nhưng theo nhiều nguồn tin, kể cả từ tác giả, thì Cửa mở không hề bị cấm. Tuy vậy, tập thơ đã được nhiều người chuyền nhau đọc, hoặc chép tay, học thuộc… 18 năm sau Cửa mở được tái bản và bán hết veo trong một thời gian ngắn.”
Cũng trên số báo này, Toà soạn đã cho đăng tải Biên bản cuộc họp quan trọng về tập thơ Cửa mở , tại Nxb Văn học ngày 12-11-1970, với sự tham gia của nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình, nhà quản lý và cán bộ xuất bản, phát hành thời bấy giờ như: Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Trinh, Vũ Ðức Phúc, Hoàng Xuân Nhị, Nông Quốc Chấn, Huyền Kiêu, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Vũ Tú Nam, Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Trung Thông, Hoài Thanh, Xuân Tửu, Tế Hanh, Bùi Hiển, Vũ Khiêu, Phan Cự Ðệ, Phạm Hổ, Khái Vinh, Hoàng Ước, Hồng Long (thay đồng chí Phan Hiền); Trần Dũng Tiến (Văn Giáo), Việt Phương (tác giả), v.v… Có một số người được mời nhưng vắng mặt: Nguyễn Ðình Thi, Hà Xuân Trường, Nguyễn Bắc… Cuộc họp do ông Như Phong, giám đốc Nxb chủ trì.
Nhiều năm đã đi qua. Tư duy của con người cũng đã có nhiều đổi thay. Và thật khó hình dung không khí của buổi họp ngày hôm đó. Tôi tự hỏi: gương măt của ông, của những người dự phiên họp ấy thế nào. Những trang biên bản không làm nhiệm vụ mô tả gương mặt từng người. Chỉ đơn giản là ghi chép lại ý kiến của từng người.
Và cuộc họp đã được bắt đầu bằng cách thức thế này: Giám đốc NXB Văn học – ông Như Phong - mở đầu cuộc họp, với phần tuyên bố lý do: “Cuộc họp này nằm trong một sinh hoạt đã thành thường lệ của Nhà xuất bản chúng tôi, tổ chức ra để tạo điều kiện cho các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình, trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với tác giả các tác phẩm do chúng tôi xuất bản. Sau khi tác giả trình bày ý định sáng tác của mình, chúng ta sẽ hỏi thêm và sẽ góp ý kiến. Về tập Cửa mở mới ra cũng có nhiều dư luận. Vì phạm vi thì giờ, nên hôm nay, chúng ta chỉ giới hạn trong sự tìm hiểu và đánh giá nội dung tác phẩm, giúp tác giả khẳng định chỗ được, chỗ chưa được. Những điểm thuộc về phong cách, nghệ thuật sẽ bàn thêm về sau. Bây giờ mời đồng chí Việt Phương nói trước.”
Ông – đương nhiên là đến ông phát biểu. Những dòng này cũng đã được ghi đầy đủ trong biên bản:
“Việt Phương: Ở đây, tôi xin nêu ý định của người viết. Còn về giá trị thẩm mỹ, phong cách và phương pháp sáng tác, nhất định tập thơ còn nhiều non yếu của người mới viết, mong có dịp được nghe ý kiến giúp đỡ, nhưng tôi hiểu là không phải trọng điểm của cuộc họp mặt này. Ý định người viết là viết về cuộc chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến đấu cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng ta, những ý nghĩ và tâm tình của người chiến đấu viên, người đảng viên cộng sản trong cuộc chiến đấu ấy. Ý nghĩ và tâm tình này nảy sinh từ sự giáo dục của Ðảng, sự thu hoạch trong công tác, trong đời sống. Ý nghĩ và tâm tình ấy, người viết thấy trong bản thân mình, và cũng thấy trong những đồng chí, những chiến hữu cùng trong Ðảng hoặc ở ngoài Ðảng, mà mình được gặp gỡ. Vì vậy, trong tập thơ thường viết “ta”, là với ý “đồng chí ta, anh chị em “ta”. Chỉ có một bài viết “tôi” (“Người tôi theo mà chưa từng gặp mặt”). Vì bài ấy muốn nêu một tâm tình chung, nhưng thông qua một sự việc cá thể hoá đến mức không thể dùng chữ “ta” được. Mấy bài viết với cách xưng hô “anh, em” không phải chỉ là về tình yêu của một người con trai với một người con gái. Nói vắn tắt những ý nghĩ và tâm tình ấy, đó là quyết tâm chiến đấu và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, vào thắng lợi của chống Mỹ, cứu nước và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, niềm tin vào thắng lợi của lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ðó là tình yêu và lòng gắn bó với Ðảng, với Bác, với dân tộc, với đồng chí và đồng bào, với nhân dân lao động, mà tập thơ gọi là: những con người, những con người chân chính. Khi nói con người, là nói nhân dân lao động chúng ta. Ðó là lòng căm thù đối với đế quốc Mỹ, đối với bọn xâm lược, áp bức, bóc lột, đối với chủ nghĩa tư bản, mà tập thơ gọi là bọn quỷ, bầy thú dữ. Có lúc nói nỗi đau trong một số bài, với sự cân nhắc về mức độ, là nói nỗi đau vươn lên của người chiến đấu viên trong hàng ngũ cách mạng, khác hẳn nỗi đau cá nhân chủ nghĩa; tuy nỗi đau của người chiến đấu viên cách mạng là nỗi đau chuyển thành sức mạnh tấn công để trở thành niềm vui, nhưng còn cao vượt hẳn nỗi đau, và tràn đầy tâm tình người chiến đấu viên cách mạng, là niềm vui chiến đấu và chiến thắng.
Trên đây là ý nghĩ và tâm tình người viết. Còn trong việc thể hiện, ở một số bài, có một số câu đã được cân nhắc thật chín chắn chưa, điều đó người viết cũng có sự suy nghĩ và ý kiến của mình, nhưng xin để trình bày sau.”
Và cuộc họp đã kéo dài chừng 4 giờ đồng hồ.
Sau bốn mươi năm, nhiều người vẫn muốn hỏi ông về câu chuyện ngày ấy, về cuộc họp nhằm “tìm hiểu và đánh giá nội dung tác phẩm, giúp tác giả khẳng định chỗ được, chỗ chưa được” của tác phẩm; về những thực hư của quyết định thu hồi cuốn sách hay một án kỉ luật nào đó (nếu có) với ông. Và rằng ông đã phải chèo chống ra sao giữa những khó khăn ấy. Trước những câu hỏi, ông chỉ cười thật hiền lành. Nụ cười của người đã an nhiên sau đi qua mọi sóng gió.
Năm 1989, Cửa mở của ông đã được tái bản bởi chính Nxb Văn học. Cuốn sách không có bất cứ sự thay đổi nào, kể cả bìa sách và các dấu chấm phẩy. Ông tin tưởng ở những gì mình đã viết, đã công bố.Và đó là câu trả lời rõ ràng nhất của ông!
Từ “Cửa mở” đến … “Cửa đã mở”
Cửa đã mở tập hợp 111 bài thơ ông làm trong suốt 40 năm sau đó, từ lúc ông 40 cho đến khi ông vừa tròn 80. Những thăng trầm của đời người ghi dấu trong thơ ông. Nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, những ấn tượng về phong cách thơ ông – cũng như những tu duy thơ độc đáo - vẫn tập trung đậm nét và ấn tượng nhất là ở Cửa mở. Và cũng như ông tự nhận , sau khi Cửa mở ra mắt, vốn văn hoá phương tây của ông nhiều hơn vốn văn hoá phương Đông. Nhận thức được điều này, nên ông đã kịp thời bổ sung. Ví dụ trong cuốn Cửa mở , ông không hề viết một bài thơ lục bát nào , thậm chí cả những bài thơ có vần lưng cũng không hề xuất hiện. Điều này đã được “khắc phục” trong tập Cửa đã mở.
"Cửa mở" đến "Cửa đã mở" là chuyện thơ của " người trẻ tuổi", tròn 10 năm, độ từ 30 đến 40 tuổi - với nhiều mơ ước, sôi nổi, những tư duy táo bạo, khác lạ ; tiếp đó là chuyện thơ 40 năm của người từ 40 đến 80 tuổi, một dòng thời gian, để người làm thơ chiêm nghiệm, suy ngẫm nhiều hơn. Và ông nói: đó là sự khác biệt lớn nhất ở Cửa mở và Cửa đã mở
Ông cũng gọi đó là “một cuộc hành trình” .
Ông tâm sự: Hành trình thơ của tôi là hành trình thoát ra vòng trói của "những ẩn dụ oái ăm", "những thông minh văn vẹo" những cách "đảo không gian thời gian cho khó hiểu" và ngỡ thế là chiều sâu để đến được với chiều sâu trong cuộc đời thường: "Vứt nốt cảm giác và suy tưởng/ Tay trắng một mình với thơ; để "viết bài thơ một âm thanh bao hàm mọi chuyện".
Cho nên ở tập thơ Cửa đã mở, tôi muốn làm những bài thơ mà đầu đề chỉ có một từ đơn âm, nhưng là "âm chủ". Dấu vết siêu thực thì vẫn còn, chẳng hạn bài "Bay": "Người bay vào mây/Mây bay về đời/ Đời bay xuống trời/ Trời bay lên đất/ Đất bay thành hơi" nhưng là cái siêu thực phương Tây kết hợp với tinh thần phương Đông, nên mây vẫn bay về đời. [1]
Ông tâm tình về quan niệm thơ của mình - một cách cẩn trọng và kỹ lưỡng: Thơ là kết tinh sáng tạo, vươn lên thăng hoa của tình yêu cuộc sống và con người thể hiện bằng câu chữ, bằng hình tượng ngôn ngữ mà quý nhất là mới mẻ vì tự nhiên và giản dị. Nhờ thế mà giàu sức truyền cảm và gây xúc động.
Ông tự nhận điểm yếu của mình: có lời để nói nhưng không nói được bằng thơ, nên phải nói bằng các hoạt động khác . Đời sống chính của ông là nghiên cứu kinh tế - chính trị. Khi một tứ thơ đến, ông dừng lại để kiểm nghiệm mình đã đạt đến trạng thái cảm xúc đó chưa. Nếu không, ông buộc mình “phải sống đã” để biến cảm xúc thơ ấy thành cuộc sống của chính mình. Sự cẩn trọng và nghiêm khắc với nghề của ông là điều mà người phải học tập
Không phải vô cớ mà năm 1947, khi Việt Phương mới 19 tuổi, ông đã được đồng chí Phạm Văn Đồng chọn làm thư kí riêng. Và ông đã đảm nhận công việc khó khăn, thầ, lặng ấy suốt 53 năm liền – cho tới năm 2000, lúc đồng chí Phạm Văn Đồng qua đời.
Tám mươi năm đã qua - ông làm được những điều phi thường mà không phải ai cũng có khả năng làm được. Và sự kính phục không thể bày tỏ hết những cảm xúc của lớp hậu sinh khi nghĩ về ông.
[1] Theo Nhã Thuyên – báo Lao động
Phongdiep.net
Phong Điệp
Câu chuyện thời “Cửa mở”
Như không thể khác – câu chuyện với ông trong những ngày đầu năm 2008 lại quay trở về những kỉ niệm của 40 năm về trước, của tập thơ Cửa mở đã đi vào tâm thức của rất nhiều thế hệ , với những câu thơ thật khó quên: “Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở. Cuộc đời thân như hơi thở ta ơi. Ta vui lắm những niềm vui cởi mở. Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Hay những câu táo bạo như : “Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là đánh đẹp”.
Sau nhiều năm, ông mới tiếp tục ra tập thơ thứ hai - Cửa đã mở, tập hợp các bài thơ ông làm trong suốt 40 năm qua. Cuốn sách như một món quà nhân kỉ niệm lần sinh nhật thứ 80 của nhà thơ Việt Phương. Tuy nhiên, buổi ra mắt sách – vô tình trở thành cái cớ để bạn yêu thơ ông cùng nhớ về một thời Cửa mở. Và những chuyện của ngày ấy – khi xưa người ta không tiện hỏi, ông không tiện giãi bày, thì giờ đây mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Trước khi đến cuộc hẹn, để được gặp mặt ông, tôi đọc lại biên bản cuộc họp của 37 năm về trước- về cuốn Cửa mở
Cách đây chừng 2 năm, trên phụ trương báo Thơ - Hội nhà văn Việt Nam, lần đầu tiên người ta được tận mắt đọc biên bản cuộc họp về cuốn Cửa mở. Nguyên văn lời toà soạn: “Cuối năm 1970, nhiều cửa hàng sách sau khi bán tập thơ Cửa mở của Việt Phương (Nxb Văn học - 1970), liền phải đi thu hồi sách về, nhưng rốt cuộc chỉ thu hồi được từ các thư viện, chứ không thể thu hồi được sách đã bán cho khách “vãng lai”. Nhưng theo nhiều nguồn tin, kể cả từ tác giả, thì Cửa mở không hề bị cấm. Tuy vậy, tập thơ đã được nhiều người chuyền nhau đọc, hoặc chép tay, học thuộc… 18 năm sau Cửa mở được tái bản và bán hết veo trong một thời gian ngắn.”
Cũng trên số báo này, Toà soạn đã cho đăng tải Biên bản cuộc họp quan trọng về tập thơ Cửa mở , tại Nxb Văn học ngày 12-11-1970, với sự tham gia của nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình, nhà quản lý và cán bộ xuất bản, phát hành thời bấy giờ như: Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Trinh, Vũ Ðức Phúc, Hoàng Xuân Nhị, Nông Quốc Chấn, Huyền Kiêu, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Vũ Tú Nam, Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Trung Thông, Hoài Thanh, Xuân Tửu, Tế Hanh, Bùi Hiển, Vũ Khiêu, Phan Cự Ðệ, Phạm Hổ, Khái Vinh, Hoàng Ước, Hồng Long (thay đồng chí Phan Hiền); Trần Dũng Tiến (Văn Giáo), Việt Phương (tác giả), v.v… Có một số người được mời nhưng vắng mặt: Nguyễn Ðình Thi, Hà Xuân Trường, Nguyễn Bắc… Cuộc họp do ông Như Phong, giám đốc Nxb chủ trì.
Nhiều năm đã đi qua. Tư duy của con người cũng đã có nhiều đổi thay. Và thật khó hình dung không khí của buổi họp ngày hôm đó. Tôi tự hỏi: gương măt của ông, của những người dự phiên họp ấy thế nào. Những trang biên bản không làm nhiệm vụ mô tả gương mặt từng người. Chỉ đơn giản là ghi chép lại ý kiến của từng người.
Và cuộc họp đã được bắt đầu bằng cách thức thế này: Giám đốc NXB Văn học – ông Như Phong - mở đầu cuộc họp, với phần tuyên bố lý do: “Cuộc họp này nằm trong một sinh hoạt đã thành thường lệ của Nhà xuất bản chúng tôi, tổ chức ra để tạo điều kiện cho các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình, trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với tác giả các tác phẩm do chúng tôi xuất bản. Sau khi tác giả trình bày ý định sáng tác của mình, chúng ta sẽ hỏi thêm và sẽ góp ý kiến. Về tập Cửa mở mới ra cũng có nhiều dư luận. Vì phạm vi thì giờ, nên hôm nay, chúng ta chỉ giới hạn trong sự tìm hiểu và đánh giá nội dung tác phẩm, giúp tác giả khẳng định chỗ được, chỗ chưa được. Những điểm thuộc về phong cách, nghệ thuật sẽ bàn thêm về sau. Bây giờ mời đồng chí Việt Phương nói trước.”
Ông – đương nhiên là đến ông phát biểu. Những dòng này cũng đã được ghi đầy đủ trong biên bản:
“Việt Phương: Ở đây, tôi xin nêu ý định của người viết. Còn về giá trị thẩm mỹ, phong cách và phương pháp sáng tác, nhất định tập thơ còn nhiều non yếu của người mới viết, mong có dịp được nghe ý kiến giúp đỡ, nhưng tôi hiểu là không phải trọng điểm của cuộc họp mặt này. Ý định người viết là viết về cuộc chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến đấu cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng ta, những ý nghĩ và tâm tình của người chiến đấu viên, người đảng viên cộng sản trong cuộc chiến đấu ấy. Ý nghĩ và tâm tình này nảy sinh từ sự giáo dục của Ðảng, sự thu hoạch trong công tác, trong đời sống. Ý nghĩ và tâm tình ấy, người viết thấy trong bản thân mình, và cũng thấy trong những đồng chí, những chiến hữu cùng trong Ðảng hoặc ở ngoài Ðảng, mà mình được gặp gỡ. Vì vậy, trong tập thơ thường viết “ta”, là với ý “đồng chí ta, anh chị em “ta”. Chỉ có một bài viết “tôi” (“Người tôi theo mà chưa từng gặp mặt”). Vì bài ấy muốn nêu một tâm tình chung, nhưng thông qua một sự việc cá thể hoá đến mức không thể dùng chữ “ta” được. Mấy bài viết với cách xưng hô “anh, em” không phải chỉ là về tình yêu của một người con trai với một người con gái. Nói vắn tắt những ý nghĩ và tâm tình ấy, đó là quyết tâm chiến đấu và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, vào thắng lợi của chống Mỹ, cứu nước và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, niềm tin vào thắng lợi của lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ðó là tình yêu và lòng gắn bó với Ðảng, với Bác, với dân tộc, với đồng chí và đồng bào, với nhân dân lao động, mà tập thơ gọi là: những con người, những con người chân chính. Khi nói con người, là nói nhân dân lao động chúng ta. Ðó là lòng căm thù đối với đế quốc Mỹ, đối với bọn xâm lược, áp bức, bóc lột, đối với chủ nghĩa tư bản, mà tập thơ gọi là bọn quỷ, bầy thú dữ. Có lúc nói nỗi đau trong một số bài, với sự cân nhắc về mức độ, là nói nỗi đau vươn lên của người chiến đấu viên trong hàng ngũ cách mạng, khác hẳn nỗi đau cá nhân chủ nghĩa; tuy nỗi đau của người chiến đấu viên cách mạng là nỗi đau chuyển thành sức mạnh tấn công để trở thành niềm vui, nhưng còn cao vượt hẳn nỗi đau, và tràn đầy tâm tình người chiến đấu viên cách mạng, là niềm vui chiến đấu và chiến thắng.
Trên đây là ý nghĩ và tâm tình người viết. Còn trong việc thể hiện, ở một số bài, có một số câu đã được cân nhắc thật chín chắn chưa, điều đó người viết cũng có sự suy nghĩ và ý kiến của mình, nhưng xin để trình bày sau.”
Và cuộc họp đã kéo dài chừng 4 giờ đồng hồ.
Sau bốn mươi năm, nhiều người vẫn muốn hỏi ông về câu chuyện ngày ấy, về cuộc họp nhằm “tìm hiểu và đánh giá nội dung tác phẩm, giúp tác giả khẳng định chỗ được, chỗ chưa được” của tác phẩm; về những thực hư của quyết định thu hồi cuốn sách hay một án kỉ luật nào đó (nếu có) với ông. Và rằng ông đã phải chèo chống ra sao giữa những khó khăn ấy. Trước những câu hỏi, ông chỉ cười thật hiền lành. Nụ cười của người đã an nhiên sau đi qua mọi sóng gió.
Năm 1989, Cửa mở của ông đã được tái bản bởi chính Nxb Văn học. Cuốn sách không có bất cứ sự thay đổi nào, kể cả bìa sách và các dấu chấm phẩy. Ông tin tưởng ở những gì mình đã viết, đã công bố.Và đó là câu trả lời rõ ràng nhất của ông!
Từ “Cửa mở” đến … “Cửa đã mở”
Cửa đã mở tập hợp 111 bài thơ ông làm trong suốt 40 năm sau đó, từ lúc ông 40 cho đến khi ông vừa tròn 80. Những thăng trầm của đời người ghi dấu trong thơ ông. Nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, những ấn tượng về phong cách thơ ông – cũng như những tu duy thơ độc đáo - vẫn tập trung đậm nét và ấn tượng nhất là ở Cửa mở. Và cũng như ông tự nhận , sau khi Cửa mở ra mắt, vốn văn hoá phương tây của ông nhiều hơn vốn văn hoá phương Đông. Nhận thức được điều này, nên ông đã kịp thời bổ sung. Ví dụ trong cuốn Cửa mở , ông không hề viết một bài thơ lục bát nào , thậm chí cả những bài thơ có vần lưng cũng không hề xuất hiện. Điều này đã được “khắc phục” trong tập Cửa đã mở.
"Cửa mở" đến "Cửa đã mở" là chuyện thơ của " người trẻ tuổi", tròn 10 năm, độ từ 30 đến 40 tuổi - với nhiều mơ ước, sôi nổi, những tư duy táo bạo, khác lạ ; tiếp đó là chuyện thơ 40 năm của người từ 40 đến 80 tuổi, một dòng thời gian, để người làm thơ chiêm nghiệm, suy ngẫm nhiều hơn. Và ông nói: đó là sự khác biệt lớn nhất ở Cửa mở và Cửa đã mở
Ông cũng gọi đó là “một cuộc hành trình” .
Ông tâm sự: Hành trình thơ của tôi là hành trình thoát ra vòng trói của "những ẩn dụ oái ăm", "những thông minh văn vẹo" những cách "đảo không gian thời gian cho khó hiểu" và ngỡ thế là chiều sâu để đến được với chiều sâu trong cuộc đời thường: "Vứt nốt cảm giác và suy tưởng/ Tay trắng một mình với thơ; để "viết bài thơ một âm thanh bao hàm mọi chuyện".
Cho nên ở tập thơ Cửa đã mở, tôi muốn làm những bài thơ mà đầu đề chỉ có một từ đơn âm, nhưng là "âm chủ". Dấu vết siêu thực thì vẫn còn, chẳng hạn bài "Bay": "Người bay vào mây/Mây bay về đời/ Đời bay xuống trời/ Trời bay lên đất/ Đất bay thành hơi" nhưng là cái siêu thực phương Tây kết hợp với tinh thần phương Đông, nên mây vẫn bay về đời. [1]
Ông tâm tình về quan niệm thơ của mình - một cách cẩn trọng và kỹ lưỡng: Thơ là kết tinh sáng tạo, vươn lên thăng hoa của tình yêu cuộc sống và con người thể hiện bằng câu chữ, bằng hình tượng ngôn ngữ mà quý nhất là mới mẻ vì tự nhiên và giản dị. Nhờ thế mà giàu sức truyền cảm và gây xúc động.
Ông tự nhận điểm yếu của mình: có lời để nói nhưng không nói được bằng thơ, nên phải nói bằng các hoạt động khác . Đời sống chính của ông là nghiên cứu kinh tế - chính trị. Khi một tứ thơ đến, ông dừng lại để kiểm nghiệm mình đã đạt đến trạng thái cảm xúc đó chưa. Nếu không, ông buộc mình “phải sống đã” để biến cảm xúc thơ ấy thành cuộc sống của chính mình. Sự cẩn trọng và nghiêm khắc với nghề của ông là điều mà người phải học tập
Không phải vô cớ mà năm 1947, khi Việt Phương mới 19 tuổi, ông đã được đồng chí Phạm Văn Đồng chọn làm thư kí riêng. Và ông đã đảm nhận công việc khó khăn, thầ, lặng ấy suốt 53 năm liền – cho tới năm 2000, lúc đồng chí Phạm Văn Đồng qua đời.
Tám mươi năm đã qua - ông làm được những điều phi thường mà không phải ai cũng có khả năng làm được. Và sự kính phục không thể bày tỏ hết những cảm xúc của lớp hậu sinh khi nghĩ về ông.
[1] Theo Nhã Thuyên – báo Lao động
Phongdiep.net